Thứ Tư, 1 tháng 9, 2010

TRÚC LÂM, LÀNG QUÊ CỦA TÔI

Quê hương - hai tiếng gọi ấy tuy bình dị thân thương nhưng lại có ý nghĩa lớn lao đối với mỗi một con người chúng ta. Ai cũng thế, nếu có dịp đi xa, ta mới thấy cái cảm giác nhớ quê. Nhớ tất cả những kỉ niệm của thời thơ ấu in đậm trong ký ức của mình. Nhớ ngôi nhà thân quen, nhớ con đường đi học, nhớ mảnh vườn thơm tho cây trái, nhớ ánh trăng vằng vặc chiếu sáng sau lũy tre già và cả đường đi lối lại trước thuở lên mười. Những lúc nghĩ đến quê hương, hồn ta như đang chập chờn dạo chơi trên con đường lát đầy quá khứ, mơ thấy khói lam chiều quấn quít trên mái tranh, nghe thoang thoảng mùi rơm mới và cỏ dại, trong lòng ta lại trỗi dậy nỗi nhớ cồn cào, quay quắt, tim ta quặn thắt, nôn nao khó tả đến vô vàn.
Đã lâu lắm rồi, chúng tôi lớn lên, học hành xong, mỗi đứa phiêu bồng mỗi ngã với cái nợ áo cơm, bỏ lại sau lưng cánh đồng thơm mùi lúa chín, bỏ lại cây rơm, đụn khói dưới lũy tre trước ngõ khi làng tôi sắp bước vào mùa. Em tôi thì ở lại làng quê cuốc cày với mưa nắng, bạn tôi có đứa thì lên non, đứa thì xuống biển, kẻ đi vào Nam, người thì ra Bắc. Đến bây giờ, cho dù ở cái tuổi tóc đã hai phần muối trắng nhưng chắc chắn những kỷ niệm về làng quê vẫn lẫn khuất đâu đó trong ngóc ngách tâm thức của mỗi người, cho dù bạn đã đi xa và đang ngập mình trong lối sống xôn xao của đô thị hoặc bạn đang lam lũ ở quê nhà.
Làng tôi là một làng quê bé nhỏ, bình thường như bao làng quê Việt Nam khác, cũng là cây đa, giếng nước đầu làng, có những con đường bằng đất ngoằn ngoèo uốn lượn bên con mương nhỏ, có lũ trẻ và những buổi chiều bình yên thong thả trên lưng trâu, chúng vô tư vui đùa với cánh diều no gió...Làng tôi có những người thân yêu đang ngày đêm vui sống dưới túp lều tranh quen thuộc, vun trồng ngọn lúa nương khoai...Nhưng có lẽ điều khác biệt nhất so với các làng quê khác, đó là lũy tre làng.
Lũy tre ở làng tôi không giống như các làng khác, người ta trồng tre Ngà ở đầu làng, cuối làng, ở khắp các xóm, các biền, bao bọc chung quanh để che gió bão, bảo vệ đất đai. Ở giữa làng người ta trồng tre chung quanh vườn, trồng trên nương, chung quanh am miếu... Tre hợp lại thành rừng, trải dài xanh mát, phủ kín cả làng quê yên ả, dang tay ôm hết xóm dân nghèo lam lũ. Có lẽ thế nên làng tôi mới có tên gọi là Trúc Lâm.
Làng tôi đã có từ lâu lắm rồi. Qua lịch sử để lại, căn cứ vào câu đối ở miếu thờ ngài Khai Canh (“Nhân ư Hồng Đức di dân thỉ - Công bỉ Thần Nông bá cốc sơ”) được biết làng thành lập vào những năm đầu Hồng Đức vua Lê Thánh Tông tức là vào khoảng năm Canh Dần (1470). Vào thời gian này dân cư rất ít, chỉ có một nhóm gồm các thành viên của các họ chính thức. Trong gia phả của họ Trần có đoạn ghi: “Ngài tổ họ Trần chiếm lấy đất này ở bổn xã là làng Trúc Lâm, tổng An Ninh, huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Thuở xưa, nơi đây đất rộng người thưa, ngài Khai canh họ Hoàng cùng với các ngài Thỉ Tổ các họ trong làng đã đưa dân đến nơi đây khai phá đất đai, trồng tre, dựng làng cho nên đã lấy tên làng là Trúc Lâm”. Trúc Lâm ở đây có nghĩa là rừng tre đúng như gốc tích lập làng. Thuở ban đầu làng tôi có 4 xóm (hay còn gọi là ấp): xóm Đông, xóm Tây, xóm Nam, và xóm Trung, sau này có lập thêm xóm Rú và xóm Đồng. Hiện nay, với chủ trương dãn dân của Nhà nước, một số hộ đã được đưa lên định cư ở chân rú Bắp thuộc địa phận của làng.
Làng tôi ở phía Tây kinh thành Phú Xuân Huế, cách đường chim bay chừng 3 km. Phía Tây Nam có núi Bắp thoai thoải, rất rộng, phía dưới chân núi có các cồn như: cồn Hàu, cồn Chùa, cồn Côi, cồn Thối, cồn Tranh, cồn Xứ Mua, cồn Ô Bang. Các công trình kiến trúc có Đình (tổ chức tế Thu vào 20 tháng 7 Âm lịch), Chùa, miếu Thành Hoàng, miếu Khai Canh (tổ chức chánh kỵ vào ngày mồng 3 tháng giêng Âm lịch), miếu ngài Cai Tri, miếu Bà Chúa, miếu Ngũ Hành, Hòn Mô, mụp Con Quy, đền Khổng Tử (tổ chức tế Xuân vào ngày Đinh trong thập can Âm lịch), đền Cô Hồn (tổ chức Đại lễ Cầu siêu và cúng tế của toàn dân vào ngày 7 tháng 3 Âm lịch), miếu Ngũ hành... các miếu Xóm, các nhà thờ Họ, Phái, Chi. Đa phần, phía trước các di tích này đều có con hói chứa nước chảy qua, con hói này do dân làng tự đào. Hói chạy ngoằn ngoèo trong làng, rồi lại chạy bọc ra bìa làng, nhờ vậy mà những khi lũ lụt, nước được nhanh chóng chảy thoát ra sông Bạch Yến ở làng An Ninh Thượng. Hồi ấy đường sá ở làng còn chật hẹp, bằng đất nên đến mùa mưa lụt thì lầy lội khó đi. Muốn qua bên kia con hói thì phải đi qua cái cầu tre lắc lẻo, chông chênh vì đó là cây cầu người ta chỉ bó vài ba cây tre lại với nhau gác trên cái chân cầu cũng bằng tre, đặt chéo nhau vươn dài lên một bên để nối với cái sào nằm ngang làm tay vịn. Có những nơi cầu cũng được làm bằng tre, nhưng rộng hơn. Ở phía trên mặt, người ta đan những tấm khại bằng tre để lát ngang, nên tiện cho việc đi lại hơn, nhưng gánh gồng và xe đạp vẫn khó đi, người ta gọi đó gọi là “Cầu Khại”. Vào khoảng năm 1954 trở về sau cầu được thay thế vững chãi hơn, người ta làm cầu bằng gỗ, bằng bê tông cốt thép. Họ đúc thành 2 hoặc 3 cột vuông 10 cm, dài 3 hoặc 4 mét để bắt ngang qua hói nhưng lối đi vẫn còn hẹp. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ngày mồng 3 tháng giêng năm Tân Tỵ (2001), sau khi tổ chức lễ kỵ ngài Khai Canh, dân làng đã họp bàn việc bê tông hóa con đường chính và các kiệt theo chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Hơn 2000 mét đường bê tông đã được thực hiện ngay sau thời gian đó với bề rộng đường chính là 2,5 mét, đường kiệt 2 mét. Đâu năm 2010, con đường chính đã được chính quyền địa phương quan tâm cải tạo lại rộng hơn nhiều, tăng mỗi bên thêm một mét, nên việc đi lại của nhân dân vô cùng thuận tiện. Từ sau năm 1998, làng tôi đã có điện chiếu sáng, đường dây điện thoại, nước sinh hoạt, trường Tiểu học và Trung học Cơ sở được xây dựng lại khang trang, hệ thống chiếu sáng công cộng được lắp đặt, cảnh quan môi trường được quan tâm cải tạo. Sau khi lên phường một số công trình công cộng đã được xây dựng, trong đó có Nhà Văn hóa của làng.
Thuở sơ khai, các vị thỉ tổ đến đây khai hoang, trồng tre dựng làng vì đất đai ở đây trù phú, địa thế bằng phẳng, phong cảnh hữu tình, mưa thuận gió hòa. Trải qua hơn năm trăm năm, bộ mặt làng tôi ngày càng thay đổi và khởi sắc nhưng cái nét thân quen vẫn còn đó. Trong chúng tôi, có người như tôi, vốn xa làng từ nhỏ, hình ảnh ngôi làng xưa dưới chân núi Bắp như con đường mòn trong tâm thức, chứa đựng nhiều kỷ niệm khó phai. Làm gì, đi đâu tôi cũng cứ nghĩ đến hình ảnh của làng quê. Khi đang còn học ở Tiểu học, chúng tôi đã tận tay sờ vào một tảng đá cao hơn một mét, rông khoảng 60 cm, sau đó đánh dấu chiều cao của mình trên đá để lần sau xem tảng đá có cao thêm không, vì theo lời người đời trước cho rằng tảng đá đó đang lớn lên hàng năm nên gọi là hòn “Đá mọc”. Núi Bắp có chôn nhiều mộ Tàu bằng vôi, có lăng Ông Tu, mộ của các ông bà dòng họ Hoàng tộc như mộ ở Khe Mụ Hậu, lăng Ba Vành, lăng Hai Vành, lăng Một Vành ở Cồn Chùa...Ngoài ra, theo tư liệu họ Phan ở Thừa Thiên Huế, rú Bắp còn có mộ bà Thị Lãng, vợ của ông tổ họ Phan làng An Ninh Thượng.
Làng tôi có nhiều cây cổ thụ như cây Cừa, cây Cối, cây Ươi huện, cây Thị, cây Dừa, cây Vông....Các cây cổ thụ này đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp uy nghi và trang nghiêm cho các công trình cổ ở trong làng. Ở ngoài cánh đồng thì có cây Sen, cây Quáo,... làm nơi nghỉ ngơi giữa buổi cho nông dân. Trên núi có đền Cô Hồn với lễ hội cúng vào tháng Ba mà chỉ ở làng tôi mới có. Đến ngày này, dân làng tôi vui như ngày hội, ai nấy phấn chấn hẳn lên, tích cực sắp xếp, lo toan mọi việc để kịp làm lễ vật mang lên cúng. Từ 12 giờ trưa cho đến 2 giờ chiều, dân làng đã tranh thủ gánh gồng các mâm lễ vật tùy nghi do gia đình tự làm một cách tinh tấn, sạch sẽ. Họ không bao giờ nếm thử trong khi chế biến các vật phẩm đó vì tin rằng các cô hồn nơi đây rất linh thiêng. Năm nào cũng vậy họ thường mang các vật phẩm như: bánh lọc, bánh tày, bánh tét, bánh nếp, bánh dẽo, bánh nậm, bánh chưng, xôi chè, các loại trái cây,...các loại giấy cúng, hoa, nhang đèn, các loại bánh khô làm sẵn cho đến các loại nông sản do tự tay nhân dân sản xuất được. Lúc này, nếu đứng ở trên núi trông xuống, ta sẽ thấy dòng người ngoằn ngoèo nối tiếp nhau như con rắn khổng lồ dài hàng trăm mét. Nhiều du khách có dịp đến đây đã cảm nhận được cái đẹp của lễ hội, đặc biệt, họ nhận ra và cảm phục sự thể hiện một tinh thần đoàn kết, thân tình và thành tâm đến tột bậc của dân làng tôi. Trên sân đền, người đứng chật cứng như nêm, sau khi đặt lễ vật vào đền, họ vây quanh lấy nhau hỏi han, chuyện trò không dứt, có lẽ đây là cơ hội để họ gặp nhau hàn huyên, tâm sự sau bao ngày xa cách. Lễ cúng diễn ra khá lâu khoảng chừng 3 tiếng đồng hồ, khi lễ tất, mọi người trở vào nhận lễ vật, sau đó lại rồng rắn gánh gồng về nhà chuẩn bị cho một cuộc liên hoan hội ngộ đại trà tại mỗi gia đình.
Tôi nhớ mái đình làng tôi với ngày hội tế vào đầu Thu. Hồi ấy, cứ đến ngày này, ban đêm chúng tôi kéo nhau ra đình xem họ làm thịt bò, xem tế lễ, nghe đánh trống, thổi kèn. Ban ngày vào hai giờ chiều thì đi theo đoàn rước đến Chùa để rước Thập nhị tôn phái, đến Am Ông để rước Ngài Thỉ tổ. Chúng tôi nhớn nhát tranh nhau đi bên cạnh các ông thổi kèn, đánh trống, nghịch ngợm, huơ huơ cái tay dưới ống của chiếc kèn các thầy tử đang thổi để xem cái âm thanh phát ra có khác tí nào không, hoặc chúng tôi đi giật lùi về phía sau như đang quay phim để trông thấy thật rõ mấy lá cờ đầy màu sắc đang được các bác cầm cờ, dương lên phía trước và đi chầm chậm, một cách trang trọng thành hai hàng hai bên đường. Bên phải của ngôi đình làng là ngôi chùa cổ rêu phong được xây dựng từ rất lâu ở phía sau chân núi. Địa thế và cảnh quan ở đây rất đẹp, có nhiều cây cổ thụ tán tròn và rộng để làm nơi sinh hoạt chung, cắm trại nhưng đến nay đã bị gãy đổ rất nhiều vì gió bão. Chùa là nơi sinh hoạt của Khuôn hội và Gia đình Phật tử, nơi trưởng thành và chứa đựng nhiều kỷ niệm của chúng tôi. Dù có đi xa vạn dặm, tôi cũng không sao quên được cái dáng dấp cổ kính của ngôi chùa. Chiều chiều, trong chùa ngân lên tiếng chuông, tiếng mõ, nhịp nhàng với lời cầu kinh công phu chiều. Tiếng tụng kinh trầm lắng quyện với khói nhang trầm, trộn lẫn hương thơm ngào ngạt của hoa sen trên bàn thờ Phật, tạo thành một hương thơm phảng phất, nghe nhẹ nhàng, thanh thản đến diệu kì. Tôi trộm nghĩ đó là mùi hương của lòng Từ bi. Những đêm trăng sáng, chúng tôi đã từng nằm trên bãi cỏ non trước chùa hàng tiếng đồng hồ để ngắm sao, nói chuyện phiếm và để thưởng thức cái hương thơm hiếm hoi nhưng thân quen đó. Có lần, tản bộ trên phố, tôi bất chợt thoáng nghe cái hương ấy, tôi quay ngắt người thẫn thờ cố quan sát để hứng lấy, nhưng vẫn không tìm thấy, tôi thầm nghĩ: có lẽ đó là mùi của hoa Mộc Lan đâu đó.
Cứ mỗi lần về thăm quê, tôi lại đi bộ khắp làng để tìm lại cái cảm xúc năm xưa mà tôi đã từng trải. Nơi nào cũng đầy ắp kỷ niệm với tuổi thơ tôi. Thật tuyệt vời. Tôi trẻ lại đến nửa đời, vì bao nhiêu kỷ niệm đang dội về ấy đã sống với tôi từ lúc mới lên mười. Tôi đi dọc theo con hói và cố nán lại thật lâu ở đấy để hồi tưởng cái hình ảnh của tôi và mấy cậu bạn tóc húi, da đen ngâm, với bộ áo quần xộc xạch, lấm bùn, đang trốn nhà tát cá trước sân đình. Bên kia, là công viên nơi chúng tôi chơi đuổi bắt, vẫn còn sừng sững cây dừa xiêu vẹo với dáng đứng thật buồn. Nó đứng lầm lì, không hề cười đùa với gió và hình như nó cũng chẳng biết lớn lên. Từ hồi đó đến bây giờ cây dừa vẫn ngần ấy: gầy ốm, xanh xao, cằn cỗi, có lẽ nó đã mòn mõi để đợi tôi về. Hồi ấy, đang thời kỳ chiến tranh, nhưng chúng tôi luôn ham chơi nên lúc nào cũng về nhà khá muộn, có khi mọi nhà đã đỏ đèn nhưng chúng tôi vẫn còn lẩn quẩn đâu đó. Khi về trước đình làng, tôi quay đầu nhìn lại thấy cây dừa đứng làm nền trước cảnh hoàng hôn thật đẹp làm sao, hình ảnh ấy cứ bám lấy theo tôi cho đến tận bây giờ. Đi lên phía Tây một tí là núi Bắp mà có lúc chúng tôi gọi là rú Chủi, vì ở đó có nhiều cây sim trĩu quả và loại cây làm chổi quét nhà. Vào giữa tháng sáu âm lịch khi có hiện tượng gió chuyển mùa, có vài cơn mưa lất phất là cũng bắt đầu mùa sim chín. Những quả sim to bằng ngón tay cái người lớn, tím ngần, phủ quanh thân cây trên các triền đồi, triền dốc nhiều không kể xiết, quả to và ngon nhất là những cây mọc ở dưới khe. Cứ đến chiều, các chị trong làng đi bẻ chủi, lủ nhóc chúng tôi cũng rủ nhau đi theo để hái sim. Hồi ấy chúng tôi tham lam lắm, đem thật nhiều túi đựng, hái đầy một túi lại giấu ở đâu đấy cho dễ nhớ rồi đi hái tiếp. Hái xong chúng tôi thường rủ nhau ngồi trên những tảng đá lớn vừa thưởng thức vị ngọt của sim, vừa vui vẻ chuyện trò trước khi về làng. Sim hái về, chúng tôi không phải đem bán mà chỉ để ăn cho vui, làm quà cho lủ trẻ nhỏ. Hãy cứ tưởng tượng, giữa ngọn đồi vi vu gió, hòa lẫn với nắng chiều của quê nhà, nằm ngửa trên mảng cỏ xanh nhìn trời mây lồng lộng, cắn một trái sim chín mọng nước, cái vị ngọt lịm như đường, hương thơm cứ lan toả đến từng sợi dây thần kinh vị giác, thích thú biết chừng nào.
Đến mùa gặt, niềm vui tràn ngập khắp xóm làng. Tôi không bao giờ quên được cái hương vị của ngày mùa. Trên cánh đồng, mọi người làm việc rất đông như mùa chim về, trắng cả một vùng. Tiếng cười nói xôn xao của thợ gặt hòa chung với tiếng sột soạt của lưỡi hái làm cho không khí của mùa gặt càng rộn ràng hơn. Mỗi lần lúa được gặt xong, mẹ tôi bó thành từng bó lớn, xóc lên hai đầu chiếc đòn gánh nhọn, bỏ lên vai gánh, tôi cầm mấy chiếc hái và chiếc bầu đựng nước lẽo đẽo theo sau, nghe tiếng kêu kĩu kịt của gánh lúa thật êm tai. Những bông lúa trĩu hạt, vàng tươi, lắc lắc nhịp nhàng như đang mừng rỡ vì được mẹ tôi mang về nhà sau bao ngày hứng sương chịu gió giữa đồng. Về đến nhà, ba tôi rãi lúa ra thật đều giữa sân thành một lớp dày, dắt cho trâu đi vòng tròn, nó giẵm lên làm những hạt lúa rụng và rơi xuống giữa sân. Chị em tôi cùng nhau gom lúa lại, cho vào những chiếc thúng để mang vào nhà. Khi xong việc, chúng tôi đua nhau nhảy lên đống rơm tươi được chất cao ngất một bên sân, cái mùi thơm của lúa mới nghe quen quá, hình như có lẫn mồ hôi và nước mắt của mẹ tôi nhưng hồi ấy tôi đâu hề hay biết.
Còn biết bao nhiêu kỷ niệm về làng quê mà tôi không bao giờ kể hết. Ngày về thăm quê gần đây, đứng giữa trời chiều lồng lộng, nhìn xa xa phía cây dừa trước đình làng, trong tôi lại dâng lên niềm cảm xúc nghẹn ngào: Quê hương ơi ! đâu rồi những ngày dong ruỗi của tuổi thơ tôi ?
           Tháng 8 năm 2010. Thi Sơn – Phan Văn Thảo