Thứ Sáu, 2 tháng 7, 2010

TUỔI THƠ CỦA BA.

“Tuổi thơ”- mỗi lần nhắc đến hai tiếng ấy thì con lại thấy mắt ba như sáng lên rồi ba chợt nhìn xa xăm như đang nhớ nhung, tiếc nuối về một điều gì đó của một thời đã xa. Con biết, tuổi thơ là khoảng thời gian đáng nhớ nhất, thân thương nhất và hằn in trong cuộc đời của mỗi con người. Đặc biệt, đối với ba, nó còn chứa đựng một điều gì đó thật thiêng liêng, thật kì diệu mà ba đã luôn trân trọng, khắc sâu vào tâm trí mình.Tuổi thơ của ba khác hẳn với tuổi thơ của con. Ba thường bảo con may mắn được sinh ra khi đất nước đã thống nhất, đời sống lúc nào cũng đầy đủ, sung túc. Còn ba thì ngược lại, tuổi thơ của ba không có lấy một ngày bình yên và hạnh phúc. Ba phải trải qua một thời tuổi thơ sống chung với bom đạn, bao nhiêu hiểm họa vẫn đang luôn rình rập, đe dọa tính mạng của mỗi một con người. Tuy nhiên, con biết, không phải vì thế mà tuổi thơ của ba chỉ đầy rẫy nỗi sợ hãi và lo lắng, chính ba đã biết tạo ra cho mình một tuổi thơ thật êm đềm. Đó là cả một thời tuổi thơ đầy hồn nhiên, trong sáng với bao kỷ niệm đẹp mà con không bao giờ có được. Ba thường nói, tuổi thơ của ba là hình ảnh cây dừa xiêu vẹo, cằn cỗi trước mái đình làng với những buổi chiều vui chơi thỏa thích, những đêm nằm trên thảm cỏ để ngắm trăng với bạn bè cùng trang lứa, là những quả dưa chuột nhỏ xíu treo dây lủng lẳng trên dãy đá xám rong rêu, là cây ổi, hàng cau tóc xoắn, là những hạt thị non béo ngậy,.. là hương thơm ngây ngất của hoa sen và khói hương chiều quyện chặt vào nhau rồi cùng tỏa ra bên mái chùa cổ làm cho lòng ba thấy vô cùng thanh thản và yên bình.Con biết, gia đình ta ngày xưa là một gia đình nghèo khó, vì vậy ba đã phải rất vất vả để đỡ đần ông bà nội. Hằng ngày, ba đã phải dậy từ sáng sớm tinh mơ, từ lúc con gà trống chỉ vừa cất tiếng gáy đầu tiên. Bởi vì ba phải ra đồng thật sớm để cùng ông bà trồng rau, trồng đậu kiếm bữa cơm qua ngày. Làm việc cho đến khi mặt trời đã lên cao, ba mới về ăn sáng bằng mấy củ khoai, củ sắn nhỏ và đi bộ đến trường. Từ nhà đến trường là một quãng đường khá xa, vậy mà chẳng bao giờ ba bị muộn học cả cũng nhờ thói quen dậy sớm của ba. Ông nội “chế biến” cho ba một bộ đồng phục: chiếc áo trắng đã ngả màu vàng còn chiếc quần tây ka ki cũ kĩ thì đã bạc trắng từ lâu nên không biết trước đây nguyên thủy nó đã có màu gì, nhưng ba chẳng bao giờ than phiền mà ngược lại còn rất thích nó nữa vì ba hiểu được hoàn cảnh gia đình lúc ấy. Ba chẳng muốn mình trở thành gánh nặng cho gia đình, ba chỉ quyết tâm học thật giỏi để đền đáp công ơn của ông bà đã vất vả nuôi ba nên người. Có lẽ chính bởi ba sớm nhận thức ra điều đó nên ba rất chăm học, chưa bao giờ ba nghĩ đến việc trốn học đi chơi. Vở của ba bọc bằng vỏ bao xi măng, tuy giấy mỏng và đã ngả vàng nhưng trong vở lúc nào cũng có lời khen của thầy cô giáo. Vì vậy, tuy khổ cực là thế, gian nan là thế nhưng ông bà hứa sẽ cho ba học đến nơi đến chốn, không để ba sau này phải đi theo con đường vất vả mà ông bà đã từng đi. Ba không muốn phụ lòng mong mỏi của mọi người, nên càng ra sức học tập. Tuy thời gian không có nhiều, ba vẫn tận dụng mọi lúc để học bài. Mỗi buổi chiều đi chăn trâu, ba đem theo cả sách vở để học bài. Ba bảo, ngồi trên lưng trâu mà học thì chẳng có gì thú vị bằng, học càng nhanh thuộc bài hơn. Học bài xong, ba còn rủ cả những người bạn chăn trâu cùng chơi thả diều. Diều của ba tự làm nên không đẹp, không nổi bật với những đường hoa văn đặc sắc mà nó chỉ là những tờ giấy bìa của cuốn vở cũ và mấy gọng tre già. Tuy vậy diều của ba luôn bay cao nhất bởi vì ba làm nó rất chắc chắn và được thả lên trời bởi một cuộn dây khá dài do ba ngồi tơi ra từ một sợi dây múc nước cả hàng trăm tép nhỏ buộc lại với nhau, cộng thêm tiếng sáo vi vu như khuyến khích con diều thích chí bay cao hơn. Cây sáo ấy là cây sáo do ba tự làm dưới sự chỉ dẫn của ông nội, ông còn dạy ba thổi sáo nữa nên tiếng sao của ba lúc trầm lúc bổng nghe thích thú đến lạ kì. Ba bảo đó là tiếng gọi thân thương của quê hương, của tuổi thơ mà không một âm thanh nào có thể thay thế được. Bây giờ, mỗi lần nhìn những cánh diều no gió bay lên giữa bầu trời xanh trong và thanh bình ba lại nhớ đến cánh diều của ba cũng đã từng bay lên giữa bầu trời như thế nhưng lại đầy bom đạn hiểm nguy, và trong lòng ba dâng lên một cảm giác lâng lâng khó tả. Những cánh diều của ba như mang theo cả những ước mơ hòa bình của trẻ thơ lên cao mãi, xa mãi. Rồi biết đâu sẽ có một ông tiên nào đó bắt gặp, sẽ biến ước mơ đó thành hiện thực, biết đâu…ba nghĩ vậy. Sau những buổi chiều chăn trâu, thả diều như vậy, ba lại thong thả cùng các bạn dắt trâu ra về. Vừa đi, ba vừa ôn lại những bài đã học, do vậy những bài học đó ba sẽ nhớ được lâu hơn. Về đến nhà thì đã tối, ba phải ở trong nhà học bài dưới cây đèn dầu lờ mờ được làm từ các chiếc lọ mực cũ. Ban đêm không có ai đi đâu cả vì lúc bấy giờ, quân địch đóng rất nhiều nơi, đi ra ngoài sẽ rất nguy hiểm. Lúc rảnh rang, ba lại lấy cây đàn Mandoline cũ của ông nội mua cho ra đàn. Ba bảo, ba đàn để tâm hồn mình luôn được trong sáng và thanh thản. Tiếng đàn của ba lúc nào cũng ấm áp, nó xua tan đi mọi mệt mỏi, lo âu của mọi người trong gia đình, chỉ còn lại không khí sinh hoạt vui tươi, đầm ấm. Những buổi tối như vậy, ba luôn được mọi người tán thưởng, lòng ba cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Ba thầm ước ao sau này mình sẽ mãi mãi có được một gia đình như vậy, tuy nghèo nhưng lúc nào cũng tràn đầy niềm vui và sự ấm cúng. Thời gian lặng lẽ trôi qua. Năm ấy gọi là “năm tuổi” đầu tiên của ba cũng là ngày ba bỡ ngỡ bước chân vào lớp Đệ Thất của trường Trung học Hàm Nghi. Ngôi trường này rất rộng lớn, khang trang và có khá nhiều đồ dùng và thiết bị dạy học. Học sinh trong trường chủ yếu là con nhà thành phố, ai cũng cao lớn, trắng trẻo và có đầy đủ mọi thứ phục vụ cho việc học tập. Ngay cả việc đi học cũng được người nhà đưa đón, chẳng cần phải đạp xe đạp cọc cạch như ba và phải mất hai ba chục phút mới đến trường. Khi mùa đông đến, từng cơn gió bấc tràn về mang theo cái hơi lạnh khủng khiếp, cóng cả tay chân, nó đẩy cả xe lẫn người về phía sau mà hai mũi chân của ba thì chưa chạm được bàn đạp của xe. Do điều kiện kinh tế khó khăn, ba phải đến trường với một chiếc áo trắng mỏng duy nhất, bất chấp thời tiết bên ngoài lạnh giá đến bao nhiêu. Ngay cả áo mưa ba cũng không có lấy một chiếc lành lặn, chỉ là một chiếc túi nilon lớn được ông nội cắt may thành cái áo mưa vụng về. Mỗi lần ba đi học là ba phải đối mặt với bao nhiêu ánh mắt hiếu kì của các bạn trong trường. Nhưng cũng nhờ vậy mà thầy chủ nhiệm (hồi đó gọi là Giáo sư hướng dẫn) của lớp ba đã phát hiện ngay ba là một học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Trong khi bạn bè trong lớp ai cũng có những chiếc áo len, áo bông ấm áp và gọn gàng thì ba trông thật đáng thương với chiếc áo cộc tay. Thầy đã suy nghĩ rất nhiều về ba, cho rằng mình phải làm gì đó để giúp đỡ cho cậu học sinh này. Một hôm, sau khi học xong hai tiết Quốc văn, thầy nghĩ ra một trò chơi đầy ý nghĩa và thú vị, đó là trò bốc số trúng thưởng. Thầy huy động tất cả học sinh trong lớp mỗi người nộp lại năm đồng, thầy gom lại và chia số tiền đó thành hai nhóm. Nhóm đặc biệt là một số tiền khá lớn. Tuy nhiên, lúc đó ba không có đủ tiền để góp vào trò chơi trong khi cả lớp ai cũng hồi hộp tham gia trò chơi. Đang lúc bối rối thì thầy đến bên ba, thì thầm hỏi nhỏ:- Sao thế, em không có tiền để nộp à?- Vâng ạ! – ba lí nhí trả lời.Thầy giáo khẽ mỉm cười bước lên bục, chẳng nói với ba một câu nào làm ba ngạc nhiên không hiểu thầy đang có ý định gì. Sau khi các bạn trong lớp đã góp tiền xong để chuẩn bị cho trò chơi, thầy giáo phân phát cho mỗi người một con số ghi trên mảnh giấy nhỏ, trong đó có cả ba nữa. Thầy bảo cho ba mượn số tiền đó và sẽ trả lại cho thầy sau. Và cuối cùng, vào giây phút hồi hộp mà mọi người mong đợi, ba đã trúng giải thưởng lớn nhất. Ba vừa bất ngờ, vừa vui sướng không biết nói gì hơn, thầy giáo mỉm cười hài lòng, nhìn ba bằng đôi mắt hiền dịu. Tuy vậy, ba vẫn không biết đó là kế hoạch mà thầy đã sắp xếp sẵn để giúp đỡ cho hoàn cảnh của ba để ba có tiền mua áo ấm mặc trong mùa đông. Mãi sau này, mỗi khi cầm chiếc áo ấm trên tay là ba lại nhớ đến thầy, ba biết mình đã mang ơn thầy rất nhiều. Ba tự nhủ mình phải luôn ghi nhớ lời thầy, noi theo tấm gương của thầy, và cũng từ đó, tự nhiên ba thấy yêu nghề dạy học đến vô cùng. Ba nghĩ: để làm một người giáo viên như thầy, điều đầu tiên cần có là lòng nhân hậu, bao dung. Một người thầy như vậy sẽ luôn nhận được sự kính trọng, biết ơn của các học trò và điều quan trọng nhất là sẽ cảm thấy vui vẻ hơn khi mình mang lại cho người khác niềm hạnh phúc. Ba xem ngôi trường thân yêu ấy như gia đình thứ hai của mình, ba tự nhủ sẽ luôn yêu mến, gắn bó với ngôi trường và sau này sẽ tự chọn cho mình một cái nghề giống nghề của thầy, đó là nghề dạy học.Và cũng có lẽ chính gia đình nhỏ bé ấy đã nuôi lớn đức tính cần cù, tự lập trong con người ba. Mười ba tuổi đầu, ba có thể tự mình làm mọi việc mà không cần sự quan tâm, chăm sóc của ai. Không những vậy, ba còn đỡ đần, giúp đỡ ông bà rất nhiều việc trong gia đình, làm cho ông bà rất hài lòng và mãn nguyện về con trai của mình. Đã có lần, chiếc đồng hồ treo tường trong nhà bị hỏng do dùng quá lâu rồi, ông định bỏ đi nhưng ba ngăn lại để tìm cách sửa. Ba tháo tung tất cả các bộ phận trong chiếc đồng hồ, quan sát, tìm hiểu về cấu tạo, cách hoạt động của nó. Ba còn đánh dấu, ghi chép, đặt tên thứ tự các bộ phận rồi xếp chúng theo thứ tự quy định của riêng ba… Và cuối cùng ba đã làm được, sau một ngày mày mò nghiên cứu, chiếc đồng hồ đã chạy được như bình thường. Ba thích thú nhìn chiếc đồng hồ, nhìn thành quả lao động của mình mà không biết chán. Bởi vì không những ba đã giúp đỡ cho ông bà mà ba còn tạo cơ hội cho mình được tìm tòi, học hỏi được nhiều điều trong cuộc sống. Đặc biệt, ông bà là người hài lòng nhất khi con trai của mình đã sớm làm được những việc làm không hề tầm thường chút nào. Mỗi lần trong nhà có khách, ông nội đều nhìn lên đồng hồ đếm từng tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ cũ, khoe với mọi người rằng con trai của mình đã sửa được nó. Ông tự hào lắm, vui sướng làm cho ba cảm thấy trong lòng mình lâng lâng một niềm vui khó tả. Thế đấy, tuổi thơ của ba đầy ắp những kỷ niệm khó quên mà con cho rằng chỉ có ba mới có được. Còn con, tuy cuộc sống của con đầy đủ hơn, sung túc hơn nhưng tuổi thơ của con lại khác hẳn. Bởi lẽ tuổi thơ của ba là một thế giới kì diệu như những câu chuyện cổ tích nhiệm màu. Đó là những phép màu của riêng ba, những phép màu dành cho tuổi thơ mà chỉ ai biết tận dụng mới tạo được cho mình một tuổi thơ đáng nhớ. Đôi lúc, con ao ước mình cũng được như ba, có một tuổi thơ đúng như ý nghĩa của nó. Một tuổi thơ không hề bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài để có thể tự mình làm những việc mình muốn, tự tìm hiểu về thế giới xung quanh và sáng tạo cho cuộc sống mình thêm đầy màu sắc. Tuy nó có thể không hoàn toàn giống với tuổi thơ của ba nhưng con tin rằng, với những câu chuyện giản dị, sâu sắc của ba con sẽ tạo cho mình những kí ức đẹp nhất. Và tuổi thơ của con sẽ thật hồn nhiên, trong sáng như những gì mà con hằng mơ ước.


Phan Thị Nguyệt Minh